MANG THAI Ở BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH, MỘT VÀI KIẾN THỨC THIẾT YẾU
Có an toàn khi mang thai và sinh con nếu tôi bị động kinh?
Nghiên cứu MONEAD ( Maternal Outcomes and Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs ) cho thấy rằngnhững người mắc bệnh động kinh có thể mang thai an toàn và sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Nếu bạn đang cân nhắc việc mang thai, hãy cho bác sỹ điều trị động kinh của mình biết ít nhất một năm trước khi cố gắng thụ thai để giải quyết các vấn đề liên quan đến bệnh động kinh của bạn, bao gồm kiểm soát cơn động kinh và, nếu cần, chuyển sang dùng thuốc chống động kinh ít có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển của bé.
Tôi có bị co giật nhiều hơn khi mang thai không?
Khi mang thai, hầu hết những người mắc bệnh động kinh sẽ không có bất kỳ thay đổi nào về số cơn động kinh mà họ gặp phải. Nếu bạn không bị bất kỳ cơn động kinh nào trong 9 tháng trước khi mang thai, bạn sẽ không bị bất kỳ cơn động kinh nào trong thai kỳ. Bạn cần khám với bác sỹ của bạn để điều chỉnh hoặc thay đổi thuốc chống động kinh nhằm đạt được khả năng kiểm soát cơn động kinh tốt nhất trước khi cố gắng mang thai.
Khoảng một phần ba số người bị động kinh không thể kiểm soát cơn động kinh hoàn toàn bằng thuốc. Đây được gọi là bệnh động kinh kháng thuốc. Nếu xảy ra những trường hợp này, mục tiêu điều trị bằng thuốc là để giảm số lần lên cơn động kinh hoặc giảm mức độ nghiêm trọng của cơn động kinh trong thai kỳ.
Làm cách nào để kiểm soát cơn động kinh khi tôi đang mang thai?
Điều cần thiết là phải duy trì kiểm soát cơn động kinh vì cơn động kinh khi mang thai có thể dẫn đến chấn thương và tăng khả năng biến chứng. Khả năng xảy ra các biến chứng có liên quan đến loại và tần suất cơn động kinh. Động kinh cục bộ không có nhiều rủi ro như động kinh toàn thể (nhưng cơn động kinh cục bộ có thể chuyển qua toàn thể hoá). Các cơn động kinh toàn thể (đặc biệt là cơn co cứng-co giật) mang lại nhiều rủi ro hơn cho cả mẹ và bé.
Cách quản lý rủi ro của động kinh và mang thai
Có một số điều bạn có thể làm để duy trì khả năng kiểm soát cơn động kinh khi mang thai và giảm thiểu rủi ro:
Nhớ uống thuốc
Tiếp tục dùng thuốc chống động kinh theo chỉ định của bác sỹ trong suốt thai kỳ của bạn. Điều này sẽ giúp duy trì sức khỏe của bạn và em bé.
Tái khám hàng tháng
Lập kế hoạch với bác sỹ điều trị động kinh của bạn để lên lịch kiểm tra nồng độ thuốc chống động kinh hàng tháng và điều chỉnh liều lượng khi cần thiết. Hầu hết các thuốc chống động kinh sẽ cần tăng liều trong thời kỳ mang thai để duy trì nồng độ thuốc trong máu giống như trước khi mang thai. Mặc dù bạn đang tăng liều thuốc chống động kinh nhưng mức độ tiếp xúc với thuốc của bạn và con bạn vẫn ở mức giống như trước khi mang thai.
Ưu tiên giấc ngủ
Thiếu ngủ là nguyên nhân gây co giật phổ biến ở nhiều người dù họ có mang thai hay không. Làm việc với nhóm chăm sóc của bạn để lập kế hoạch ngủ phù hợp. Yêu cầu sự hỗ trợ từ chồng, gia đình, bạn bè và thậm chí cả sếp ở công ty của bạn để giúp thực hiện kế hoạch này.
Theo dõi cơn động kinh của bạn
Theo dõi cơn co giật của bạn. Chia sẻ điều này thường xuyên với nhóm chăm sóc thai kỳ và bệnh động kinh của bạn. Ngay cả các triệu chứng co giật nhỏ cũng có thể báo hiệu rằng khả năng bạn bị co giật đang gia tăng.
Làm thế nào để biết tôi dùng đủ liều thuốc chống động kinh?
Việc theo dõi và điều chỉnh liều thuốc chống động kinh thường xuyên có thể giúp duy trì sự ổn định của cơn động kinh đồng thời đảm bảo an toàn và sức khỏe cho cả bạn và con bạn. Hãy nhớ rằng để có sự so sánh tốt nhất về nồng độ thuốc trong máu, lý tưởng nhất là bạn nên lấy máu vào những thời điểm tương tự trong ngày và khoảng thời gian tương tự kể từ liều trước đó.
Thuốc chống động kinh của tôi có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ và hành vi của con tôi không?
Một số thuốc chống động kinh đã được phát hiện là có nguy cơ thấp đối với trẻ sơ sinh.Các nghiên cứu cho thấy lamotrigine và levetiracetam có nguy cơ ảnh hưởng đến chỉ số IQ và các chức năng não khác của trẻ thấp nhất. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng carbamazepine nhìn chung có nguy cơ thấp, trong khi thông tin về topiramate còn chưa thống nhất nhưng cho thấy mẹ dùng topiramate thì khả năng xảy ra các vấn đề về nhận thức hoặc hành vi ở trẻ tăng lên.
Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em tiếp xúc với axit valproic (Depakine, Encorate…) khi mang thai, ngay cả ở liều thấp, có nhiều khả năng có chỉ số IQ thấp hơn và khả năng ngôn ngữ kém hơn. Trẻ cũng có nguy cơ mắc chứng tự kỷ và rối loạn phổ tự kỷ cao hơn so với những đứa trẻ không tiếp xúc với thuốc. Những ảnh hưởng này tiếp tục kéo dài đến tuổi đi học của trẻ. Nếu bạn dùng axit valproic (ví dụ Depakine, Encorate…), hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để xem xét đổi thuốc chống động kinh trước khi mang thai có phù hợp với bạn hay không.
Có rất ít thông tin về các thuốc chống động kinh khác. Cần nhiều nghiên cứu hơn để tìm hiểu xem việc dùng những loại thuốc này khi mang thai ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển não bộ của trẻ.
Một số thuốc chống động kinh có thể ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể của con tôi không?
Bạn có thể nghe bác sĩ nói về dị tật bẩm sinh nghiêm trọng như tật nứt đốt sống, các vấn đề về tim và sứt môi/hở hàm ếch. Tất cả các trường hợp mang thai, cho dù cha mẹ có bị động kinh hay không, đều có nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng từ 2-3%.
Nguy cơ phát triển dị tật bẩm sinh nghiêm trọng thay đổi đáng kể tùy theo thuốc chống động kinh. Lamotrigine, levetiracetam, andoxcarbazepine có nguy cơ góp phần phát triển dị tật bẩm sinh nghiêm trọng thấp nhất trong thai kỳ. Trên thực tế, nghiên cứu gần đây cho thấy những đứa trẻ tiếp xúc với ba loại thuốc chống động kinh này không có nguy cơ dị tật thai nhi cao hơn những đứa trẻ sinh ra từ những người không dùng bất kỳ thuốc chống động kinh nào trong thai kỳ.
Việc tiếp xúc với topiramate và carbamazepine khi mang thai đã được phát hiện là làm tăng vừa phải nguy cơ trẻ sinh ra mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Axit Valproic có liên quan đến nguy cơ cao nhất. Hiện tại, dữ liệu về các thuốc chống động kinh khác liên quan đến rủi ro dị tật bẩm sinh nghiêm trọng còn hạn chế.
Một số thuốc chống động kinh cũng có thể ảnh hưởng đến kích thước của em bé. Trẻ sinh ra từ cha mẹ dùng topiramate có thể có cân nặng khi sinh thấp hơn, điều này có thể gây ra một số rủi ro sức khỏe lâu dài. Zonisamide có thể cũng có tác dụng này nhưng ở mức độ ít nghiêm trọng hơn. Nếu bạn cần dùng những loại thuốc này khi đang mang thai, bác sĩ có thể theo dõi chặt chẽ sự phát triển của em bé.
BS. Trương Văn Trí dịch
Nguồn:
https://www.epilepsy.com/lifestyle/family-planning/pregnancy